Quan điểm chỉ đạo thứ nhất việc tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng nhiệm kỳ tới trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV viết: “Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới”[1]. Với việc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV thông qua Dự thảo Báo cáo chính trị này, “Lý luận về đường lối đổi mới” sẽ chính thức được khẳng định và trở thành một bộ phận trong nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây sẽ là bước phát triển lý luận có ý nghĩa lịch sử, thể hiện sự trưởng thành về tư duy lý luận, năng lực tổng kết thực tiễn và bản lĩnh tự đổi mới của Đảng; cho thấy Đảng không giáo điều, không rập khuôn, mà luôn biết kế thừa, bổ sung và phát triển sáng tạo, gắn lý luận với thực tiễn, làm giàu thêm kho tàng lý luận - tư tưởng của cách mạng Việt Nam.

“Lý luận về đường lối đổi mới” là thành quả to lớn của công tác lý luận qua 40 năm đổi mới, là sự vận dụng và phát triển sáng tạo, cụ thể hoá các nguyên tắc, các nguyên lý phổ quát của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đổi mới của Việt Nam. Đó là hệ thống lý luận về mô hình CNXH Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về mô hình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; về xây dựng nền dân chủ XHCN, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển khoa học công nghệ thúc đẩy đổi mới, sáng tạo; về xây dựng nền quốc phòng, an ninh và đối ngoại, hội nhập quốc tế; về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Việc bổ sung "lý luận về đường lối đổi mới" vào nền tảng tư tưởng của Đảng còn là minh chứng cho thấy sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đồng thời khẳng định vai trò lãnh đạo toàn diện, sáng suốt của Đảng kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, đồng thời mở ra khả năng phát triển năng động, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế thời đại; là ngọn đuốc soi đường tiếp tục dẫn dắt chúng ta thực hiện thành công khát vọng, tầm nhìn và các định hướng chiến lược, lập nên những kỳ tích phát triển mới trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Về cơ sở lý luận của việc bổ sung "lý luận về đường lối đổi mới" vào nền tảng tư tưởng của Đảng cần thống nhất nhận thức về các điểm sau:
C. Mác và Ph. Ăng ghen luôn nhấn mạnh lý luận của họ không phải là một hệ thống giáo điều đóng kín, mà là một phương pháp luận khoa học, một học thuyết mở, luôn tự làm giàu và phát triển thông qua việc tổng kết thực tiễn. Ph. Ăng ghen khẳng định: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”[2]. Vì vây, các ông đòi hỏi những người cộng sản phải vận dụng một cách sáng tạo, phù họp với đặc điểm lịch sử, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia dân tộc trong từng giai đoạn.
V.I. Lê-nin đặc biệt coi trọng lý luận cách mạng. Người căn dặn các đảng cộng sản: “…chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”[3]. Nhưng trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác, V.I. Lê-nin căn dặn những người cộng sản phải nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên tắc chung, những kinh nghiệm quốc tế phù hợp đặc điểm dân tộc: “... phải áp dụng những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa cộng sản… sao cho những nguyên tắc ấy được cải biến đúng đắn trong những vấn đề chi tiết, được làm cho phù hợp, cho thích hợp với những đặc điểm dân tộc…”[4]. Người nhấn mạnh: “…nhiệm vụ của những người cộng sản là phải biết áp dụng những nguyên tắc phổ biến và cơ bản của chủ nghĩa cộng sản vào… những đặc điểm riêng của mỗi nước, mà chúng ta phải biết nghiên cứu, phát hiện và dự đoán”[5].
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, không giáo điều, rập khuôn, máy móc trong cách mạng. Người chỉ rõ: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”[6]. Nhìn lại tư tưởng đó, rõ ràng “Lý luận về đường lối đổi mới” đã thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới.
Như vậy, “Lý luận về đường lối đổi mới” chính là sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện lịch sử mới của dân tộc Việt Nam; là kết quả quá trình phát triển nhận thức về CNXH, con đường đi lên CNXH trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam và tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam, cùng với những kinh nghiệm xây dựng CNXH hiện thực trên thế giới. “Lý luận về đường lối đổi mới” không phải là một học thuyết độc lập mà là sự cụ thể hóa và phát triển hai bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới của công cuộc đổi mới.
Về mặt thực tiễn, việc bổ sung "lý luận về đường lối đổi mới" vào nền tảng tư tưởng của Đảng như một lẽ tự nhiên, vì trong gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, sự phát triển Lý luận về đường lối đổi mới đã giúp tháo gỡ hàng loạt vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn đổi mới của Việt Nam, làm cơ sở lý luận cho đổi mới đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng và bảo vệ đất nước của Đảng, từ đó đưa đất nước ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của ngày hôm nay. Trên thực tế, Lý luận về đường lối đổi mới đã tạo cơ sở lý luận định hình mô hình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; xây dựng nền dân chủ XHCN; phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; phát triển khoa học công nghệ thúc đẩy đổi mới, sáng tạo; xây dựng nền quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế; xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện trong suốt 40 năm đổi mới vừa qua.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trình bày ở trên, cho thấy đã đến lúc cần bổ sung “Lý luận về đường lối đổi mới” vào nền tảng tư tưởng của Đảng, để hệ thống lý luận này tiếp tục được phát triển, làm kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng trong Kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
Nội dung Lý luận về đường lối đổi mới là hệ thống lý luận rất phong phú, toàn diện, bao quát toàn bộ các mặt, các lĩnh vực của công cuộc đổi mới, từ lý luận đổi mới chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Nội dung cốt lõi của Lý luận về đường lối đổi mới bao gồm:
(1) Lý luận về mô hình CNXH Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Mô hình CNXH mà nhân dân Việt Nam xây dựng là một xã hội được định hình bằng tám đặc trưng cơ bản thể hiện mục tiêu tổng quát, bản chất và tính ưu việt của chế độ: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh: Đây là đặc trưng tổng quát nhất, thể hiện mục tiêu phấn đấu; Do Nhân dân làm chủ: Thể hiện bản chất chính trị, mọi quyền lực thuộc về Nhân dân; Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp (kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa); Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; có điều kiện phát triển toàn diện; Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp, phải trải qua nhiều giai đoạn với 8 phương hướng cơ bản: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên và môi trường; Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (thực hiện chế độ sở hữu đa dạng, lấy kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo); Xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận Dân tộc Thống nhất; Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
(2) Lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mục tiêu kinh tế gắn kết mục tiêu xã hội, không để thị trường vận hành một cách tự phát, mà đặt nó dưới sự định hướng và quản lý của Nhà nước để phục vụ mục tiêu xã hội chủ nghĩa (công bằng, tiến bộ xã hội, phát triển con người).
(3) Lý luận về Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính tối cao của pháp luật và tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong hiện nay tập trung vào các nội dung: Hoàn thiện hệ thống pháp luật; Cải cách Hành chính, xây dựng nền hành chính phục vụ, chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn bộ máy, đẩy mạnh chuyển đổi số; Cải cách Tư pháp, xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, bảo đảm độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử; Kiểm soát quyền lực, thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ, hiệu quả; tăng cường vai trò giám sát của Nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

(4) Lý luận về nền dân chủ XHCN; đại đoàn kết toàn dân tộc. Lý luận về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) và đại đoàn kết toàn dân tộc là hai trụ cột chính trị - xã hội quan trọng của hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ. Dân chủ XHCN là chế độ dân chủ mà trong đó mọi quyền lực thuộc về Nhân dân, được thể hiện thông qua Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh và là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại đoàn kết toàn dân tộc là sự tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, các thành phần kinh tế, và người Việt Nam ở nước ngoài, trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mục tiêu đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, tạo đồng thuận xã hội để thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
(5) Lý luận về phát triển văn hóa, con người là nền tảng, giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển khoa học, công nghệ là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại. Đảng xác định văn hóa không chỉ là mục tiêu mà còn là nền tảng phát triển của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, và con người là chủ thể, trung tâm của chiến lược phát triển; Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) cùng với Khoa học và Công nghệ (KH&CN) là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Khoa học và Công nghệ là một động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
(6) Lý luận về quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên. QP-AN là nhiệm vụ hàng đầu và sống còn để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN. Không có quốc phòng, an ninh vững mạnh thì mọi thành tựu kinh tế, văn hóa đều không thể bền vững. Công tác QP-AN phải được tiến hành liên tục, không ngừng nghỉ trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong thời bình, để chủ động phòng ngừa, đối phó kịp thời.
Đường lối đối ngoại của Việt Nam là độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, với mục tiêu cao nhất là phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc. Các trụ cột chiến lược của đối ngoại là: Đa phương hóa, đa dạng hóa, thiết lập quan hệ với nhiều đối tác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, và cùng có lợi. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện trên cơ sở phát huy nội lực.
(7) Lý luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị là nhiệm vụ then chốt và có vai trò quyết định đến sự thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật phát triển của Đảng.
Để thực hiện tốt chủ trương bổ sung "lý luận về đường lối đổi mới" vào nền tảng tư tưởng của Đảng cần chú ý một số vấn đề sau:
Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức và thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng và Nhân dân về vai trò, vị trí và nội dung cốt lõi của “Lý luận về đường lối đổi mới”.
Hai là, “Lý luận về đường lối đổi mới” phải được tiếp tục hiện thực hóa thành chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và chỉ đạo triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ba là, tăng cường đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ “Lý luận về đường lối đổi mới”.
Bốn là, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, phát triển “Lý luận về đường lối đổi mới”./.
PGS,TS Nguyễn Văn Giang
Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương
[1] Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb.CTQGST, bản in 8-2025, tr.20.
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.36, Nxb.Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.797.
[3] V.I.Lê-nin Toàn tập, tập 6, Nxb.CTQGST, Hà Nội, 2005, tr.32.
[4] V.I.Lê-nin Toàn tập, tập 41, Nxb.CTQGST, Hà Nội, 2005, tr.96.
[5] V.I.Lê-nin Toàn tập, tập 41, Nxb.CTQGST, Hà Nội, 2005, tr.93.
[6] Hồ Chí Minh toàn tập, t.1, Nxb.CTQG-ST, Hà Nôi, 2011, tr.509.