Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV xác định mục tiêu và chương trình hành động trong nhiệm kỳ 2021-2026 và tầm nhìn chiến lược và định hướng phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI đang được lấy ý kiến góp ý rộng rãi của nhân dân. Trong bối cảnh thế giới đang có những sự thay đổi nhanh chóng, khó dự báo, đất nước sau 40 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn và những cải cách mạnh mẽ hiện nay nhằm phấn đấu đạt mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển, công nghiệp hiện đại có thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 nước XHCN hiện đại, thu nhập cao. Văn kiện nhìn chung có nhiều điểm mới nổi bật. Báo cáo này phân tích những nội dung cốt lõi về kinh tế.

1. Bối cảnh trong nước và quốc tế
Thế giới đang có sự thay đổi hết sức nhanh chóng và sâu sắc khó dự báo. Hòa bình, hợp tác vẫn là xu thế lớn nhưng đứng trước những thách thức to lớn. Cạnh tranh giữa các nước lớn ngày càng gay gắt trên tất cả các phương diện, đặc biệt là KHCN và quốc phòng an ninh. Xung đột diễn ra ở nhiều nơi, chạy đua vũ trang ngày càng gia tăng.
Những vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng phát triển và tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của mỗi nước. Biến đổi khí hậu, thảm họa thiên tai xảy ra ngày càng khốc liệt ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 4 diễn ra ngày càng nhanh và mạnh mẽ, tác động đến tất cả các mặt của đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước và quan hệ giữa các nước.
Trong nước sau 40 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các mặt. Kinh tế tăng trưởng khá cao và ổn định, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Những cải cách có tính cách mạng hiện nay đang tao ra những cơ hội phát triển mới cho đất nước nhằm đạt những mục tiêu đề ra cho giai đoạn tới đây.
Trong bối cảnh đó, về kinh tế Văn kiện Đại hội XIV đã có nhiều điểm mới, nội dung trọng tâm.
2. Nội dung cốt lõi về kinh tế trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng
2.1. Thể chế là khâu đột phá chiến lược quan trọng nhất trong dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, nhằm tạo ra một khuôn khổ pháp lý và môi trường thuận lợi nhằm phát triển nhanh và bền vững. Dự thảo Văn kiện xác định: “Tập trung hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, trong đó thể chế chính trị là then chốt, thể chế kinh tế là trọng tâm, các thể chế khác là rất quan trọng”.
Trên lĩnh vực kinh tế, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, tạo đột phá để sớm hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội, khẳng định vai trò quyết định của thị trường trong huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh bảo đảm thuận lợi, công khai, minh bạch, ổn định, giải phóng sức sản xuất, huy động mọi nguồn lực và tạo động lực mới cho phát triển.
Xây dựng và hoàn thiện thể chế phù hợp để xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế số, nhất là công nghệ tài chính, tài sản số, trí tuệ nhân tạo, thương mại điện tử, các ngành công nghệ mới. Có cơ chế, chính sách đột phá, vượt trội để phát triển các mô hình kinh tế mới và các dự án trọng điểm, quy mô lớn như: Kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, các vùng động lực, cực tăng trưởng, hành lang kinh tế, đặc khu kinh tế, đặc khu công nghệ, khu thương mại tự do, trung tâm tài chính quốc tế, trung tâm dữ liệu quốc gia; đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, điện hạt nhân, điện mặt trời, điện gió ngoài khơi... “

Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện đại và hội nhập quốc tế. Trước hết, tập trung vào hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách để xây dựng nhà nước kiến tạo phục vụ người dân và doanh nghiệp, giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước- thị trường và xã hội. Xác định thị trường có vai trò quyết định trong việc huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh bảo đảm thuận lợi, công khai minh bạch, ổn định, giải phóng sức sản xuất, huy động mọi nguồn lực và tạo động lực mới cho phát triển. Xây dựng thể chế khuyến khích rủi ro có kiểm soát và thí điểm chính sách mới (Sandbox). Ưu tiên thể chế cho kinh tế số, chuyển đổi xanh, và các ngành công nghiệp tương lai. Đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển từ quản lý sang quản trị phát triển và kiến tạo. Thực hiện phân cấp, phân quyền hợp lý, đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát và nâng cao trách nhiệm giải trình. Hoàn thiện thể chế về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, và ứng phó biến đổi khí hậu. Xây dựng khung pháp lý cho kinh tế tuần hoàn và phát triển xanh…..
2.2. Phát triển lực lượng sản xuất mới với trọng tâm là phát triển KHCN và nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời với hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp. Lực lượng sản xuất mới được xác định là lực lượng sản xuất tiến tiến lấy KHCN, ĐMST, chuyển đổi số là động lực chính, xác lập mô hình tăng trưởng mới tập trung vào chất lượng tăng trưởng với đặc trưng là công nghệ cao, hiệu suất cao, chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Lực lượng sản xuất mới thể hiện sự tăng năng suất lao động, đóng góp cao của các nhân tổng hợp TFP. Lực lượng sản xuất mới vừa đổi mới công nghệ và mô hình kinh doanh, vừa đổi mới sáng tạo trong quản lý và thể chế. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển hết sức mạnh mẽ hiện nay sẽ hình thành nhiều ngành nghề mới, trong đó KHCN, nhân lực cao đóng vai trò then chốt, quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia và phát triển đất nước.

2.3. Xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế lấy KHCN, ĐMST và CĐS là động lực chính. Đổi mới mô hình tăng trưởng là chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội XI khẳng định đổi mới mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang mô hình vừa theo chiều rộng vừa theo chiều sâu là chính, chuyển dịch sang các ngành giá trị gia tăng cao, nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Đại hội XII tiếp tục khẳng định chủ trương trên, nhấn mạnh trọng tâm là phát triển theo chiều sâu, lấy năng suất, hiệu quả sử dụng các nguồn lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế làm mục tiêu hàng đầu. Đại hội XIII tiếp tục khẳng định chủ trương trên và nhấn mạnh yếu tố KHCN và HNQT, tận dụng tối đa thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đại hội khẳng định mô hình tăng trưởng dần chuyển dịch tích cực từ chiều rộng sang chiều sâu, năng suất lao động được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Vì vậy, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển đất nước nhanh và bền vững tiếp tục là chủ trương, chiến lược quan trọng của Đảng và yêu cầu phát triển của đát nước trong giai đoạn tới. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng khẳng định xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số làm động lực chính. Thực chất của mô hình tăng trưởng mới là tập trung vào chất lượng tăng trưởng với khoa học công nghệ là động lực chính, mục tiêu là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra sức sản xuất và phương thức sản xuất mới chất lượng cao, trọng tâm là kinh tế dữ liệu, kinh tế số, đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng và chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực, lấy động lực tăng trưởng chính là khoa học công nghệ để làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống.
Đổi mới tư duy và đẩy mạnh cơ cấu lại toàn bộ nền kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô trên cơ sở phát triển mạnh mẽ các doanh nghiệp trong nước, trong đó doanh nghiệp nhà nước là chủ đạo, dẫn dắt, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, kinh tế đầu tư nước ngoài, kinh tế hợp tác và các loại hình kinh tế khác có vị trí quan trọng.
2.4. Phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, đây là nội dung mới và quan trọng trong dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng. Trong 40 năm đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN nói chung, phát triển kinh tế tư nhân nói riêng ngày càng được khẳng định cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Đại hội VI đã xác định nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Qua các kỳ Đại hội, phát triển kinh tế thị trường và kinh tế tư nhân từng bước được hoàn thiện cụ thể hơn, phù hợp với những đặc trưng phổ quát của thế giới và đặc thù của Việt Nam.
Hội nghị trung ương 5 khóa XII đã có Nghị quyết riêng về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó khẳng định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện đại, HNQT, trong đó vai trò của kinh tế tư nhân tiếp tục được khẳng định. Nghị quyết 68 của BCT về phát triển kinh tế tư nhân ban hành ngày 4/5/2025 khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Quan điểm này xuất phát từ thực tiễn vị trí vai trò và đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế -xã hội nước ta trong những năm đổi mới vừa qua, đồng thời là định hướng chính sách phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội XIV của Đảng nêu: “Phát huy đầy đủ chức năng, vai trò của các khu vực kinh tế. Phát triển kinh tế nhà nước thực sự giữ vững vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm các cân đối lớn, định hướng chiến, dẫn dắt nền kinh tế; phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và các loại hình kinh tế khác giữ vai trò quan trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có năng lực cạnh tranh quốc tế, đóng vai trò trụ cột, tiên phong trong một số lĩnh vực then chốt như năng lượng, công nghệ thông tin, viễn thông, công nghiệp chế tạo, công nghiệp vật liệu mới, tài chính- ngân hàng, kết cấu hạ tầng…Chú trọng phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân Việt Nam lớn mạnh, ngang tầm khu vực và thế giới.
2.5. Phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp nền tảng, đồng thời tập trung ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp mới, công nghiệp mũi nhọn. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tự chủ sản xuất trong nước với việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, xây dựng và hiện đại hóa nền công nghiệp quốc gia vững mạnh. Đồng thời phát triển nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành năng lượng, cơ khí chế tạo, luyện kim, vật liệu mới, hóa chất, công nghệ số và sinh học, ưu tiên phát triển từng bước làm chủ công nghệ sản xuất trong một số ngành công nghiệp mới nổi như: công nghiệp chíp bán dẫn, công nghiệp Robot và tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, vật liệu tiên tiến, vật liệu phục vụ công nghiệp cơ khí chế tạo, công nghiệp sinh học, công nghiệp môi trường, năng lượng tái tạo, năng lượng mới. Từng bước xây dựng, phát trển công nghiệp ứng dụng năng lượng nguyên tử, công nghiệp không gia vũ trụ, công nghiệp lượng tử. Phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, công nghiệp phục vụ quốc phòng an ninh, công nghiệp xây dựng hiện đại, công nghiệp văn hóa, kinh tế di sản, một số cụm liên kết ngành công nghiệp quan trọng, các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiện đại trên phạm vi vùng và liên vùng.
2.6. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV xác định: “Đẩy mạnh liên kết vùng, nội vùng, mở rộng và tổ chức lại không gian phát triển phù hợp với hệ thống hành chính mới. Đổi mới tư duy từ quản lý sang quản trị, kiến tạo phát triển vùng”. Mở rộng không gian phát triển, cơ cấu lại vùng, liên kết vùng theo không gian lãnh thổ mới là một điểm nhấn chiến lược quan trọng, thể hiện tầm nhìn mới của Đảng nhằm khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế khác biệt của từng vùng, đồng thời khắc phục các điểm nghẽn về cơ cấu và sự thiếu liên kết giữa các địa phương.
Việc mở rộng không gian phát triển không chỉ giới hạn trong phạm vi hành chính, mà mở rộng theo không gian kinh tế, không gian sinh thái và không gian số. Việc mở rộng không gian phát triển đặc biệt chú trọng không gian kinh tế biển, kinh tế đô thị và vùng đệm đô thị - nông thôn. Tạo động lực mới, khai thác tài nguyên tổng hợp, tăng cường khả năng chống chịu và tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Cơ cấu lại Vùng được tập trung vào việc chuyển đổi mô hình phát triển vùng từ phân tán, dựa vào chiều rộng sang tập trung, chất lượng cao, dựa vào đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ. Hình thành các trung tâm kinh tế, động lực tăng trưởng cấp quốc gia và liên vùng. Khắc phục sự chồng chéo, cạnh tranh thiếu lành mạnh, nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, lao động ở các Vùng, địa phương.
Đẩy mạnh liên kết Vùng, chuyển từ liên kết hành chính sang liên kết thể chế, hạ tầng và thị trường. Xây dựng cơ chế điều phối vùng có tính pháp lý cao, thúc đẩy hợp tác trong xây dựng hạ tầng kết nối đa phương thức (giao thông, năng lượng, thông tin).Phát huy lợi thế so sánh của từng địa phương trong chuỗi giá trị vùng, tạo ra một thị trường thống nhất và môi trường đầu tư thuận lợi cho cả Vùng.
Để thực hiện mở rộng không gian phát triển, cơ cấu lại vùng, liên kết vùng tạo đột phá về thể chế và hạ tầng nhằm định hình lại bản đồ kinh tế - xã hội của Việt Nam, hướng tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới, cần hoàn thiện thể chế liên kết vùng, xây dựng khung pháp lý đặc thù, phân cấp, phân quyền mạnh mẽ cho các cơ quan điều phối vùng, cho phép thí điểm các chính sách vượt trội; đẩy mạnh đầu tư phát triển hạ tầng kết nối Vùng, tập trung nguồn lực đầu tư cho các dự án hạ tầng chiến lược có tính lan tỏa, kết nối các đô thị trung tâm, khu kinh tế biển, và các cửa ngõ quốc tế; phát triển nhân lực cho Vùng, xây dựng các trung tâm đào tạo nghề và nghiên cứu chuyên sâu theo thế mạnh của Vùng; xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo Vùng, hình thành các chuỗi cung ứng và trung tâm nghiên cứu của Vùng; …
2.7. Đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng là định hướng nhiệm vụ, giải pháp quan trọng trong dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng. Dự thảo báo cáo tổng kết 40 năm đổi mới xác định, qua 40 năm đổi mới, nền kinh tế độc lập, tự chủ đã đạt được một số kết quả, nhưng phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng vẫn còn hạn chế; nhận thức về phương thức phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng vẫn ở mức chung nhất; chưa xây dựng được nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng;...
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng nêu rõ, trong thời gian tới, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục phát triển mạnh mẽ và tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực. Lực lượng sản xuất mới, nhất là công nghệ cao và trí tuệ nhân tạo phát triển đột phá chưa từng có. Xu thế tự chủ chiến lược, đua tranh về kinh tế, đẩy mạnh chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực... ngày càng được các nước quan tâm, thúc đẩy, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, trong đó tập trung vào một số nội dung như hoàn thiện thể chế để nâng cao năng lực tự chủ của nền kinh tế và hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, sức mạnh tổng hợp và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi nhất để phát triển các doanh nghiệp Việt Nam; giải quyết tốt mối quan hệ giữa tự chủ sản xuất trong nước với việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; xây dựng và hiện đại hóa nền công nghiệp quốc gia vững mạnh; phát triển các doanh nghiệp Việt Nam, lực lượng doanh nghiệp của người Việt Nam ngày càng vững mạnh; xây dựng một số tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có năng lực cạnh tranh quốc tế, đóng vai trò trụ cột, tiên phong trong một số lĩnh vực quan trọng; nâng cao hiệu quả các cam kết, thoả thuận, các hiệp định thương mại tự do Việt Nam đã ký kết;...
GS. TS. Nguyễn Quang Thuấn
Hội đồng Lý luận Trung ương