Thứ Sáu, ngày 12 tháng 12 năm 2025

Mục tiêu và đặc điểm của mô hình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên số

Ngày phát hành: 11/12/2025 Lượt xem 34

                                                 

Trong bối cảnh thế giới hiện nay, cục diện kinh tế - chính trị quốc tế đang biến động nhanh, phức tạp và khó lường. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục phát triển nhưng đan xen nhiều yếu tố cạnh tranh chiến lược, xung đột địa - chính trị, phân mảnh chuỗi cung ứng, biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống, cùng với tác động sâu rộng của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số. Đối với Việt Nam, yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả đã được khẳng định nhất quán trong đường lối của Đảng. Tuy nhiên, bước sang kỷ nguyên số, nội hàm “độc lập, tự chủ” cũng như phương thức và mức độ hội nhập có nhiều điểm mới, đòi hỏi phải được nhận thức đầy đủ và cụ thể hóa trên bình diện mô hình phát triển. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin tập trung vào ba nội dung chính: 1. Một số vấn đề lý luận về kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên số; 2. Mục tiêu của mô hình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới; 3. Một số đặc điểm chủ yếu của mô hình này và gợi mở chính sách.

 

 

I. Một số vấn đề lý luận về kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên số

 

Độc lập, tự chủ trong bối cảnh mới hiện nay không còn được hiểu giản đơn là đóng cửa, thu mình hay tách khỏi các mối liên hệ bên ngoài, mà trước hết là năng lực tự quyết chiến lược của một quốc gia trong điều kiện hội nhập sâu rộng và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn. Đó là khả năng giữ vững mục tiêu, lợi ích cốt lõi, đường lối và mô hình phát triển do mình lựa chọn, không bị áp đặt, chi phối bởi bất kỳ sức ép bên ngoài nào ở các phương diện chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nói cách khác, quốc gia có độc lập, tự chủ là quốc gia có khả năng tự hoạch định con đường đi của mình, biết mình muốn gì, có gì và có thể tham gia thế giới như thế nào trên cơ sở bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc lâu dài.

Trong lĩnh vực kinh tế, độc lập, tự chủ không đồng nghĩa với tự cấp, tự túc hay khép kín, mà là tự chủ về nền tảng phát triển, như tự chủ về thể chế, về cấu trúc và năng lực nội sinh của nền kinh tế, về doanh nghiệp trong nước đủ sức cạnh tranh, về trình độ khoa học - công nghệ, nhân lực chất lượng cao, về năng lực số và khả năng chống chịu, thích ứng với các cú sốc bên ngoài. Một nền kinh tế độc lập, tự chủ không phải là nền kinh tế sản xuất tất cả, mà là nền kinh tế có nội lực đủ mạnh để không rơi vào lệ thuộc một chiều vào một vài thị trường, một vài dòng vốn, một vài nguồn công nghệ, một vài nền tảng số hay một số ít chuỗi cung ứng chủ chốt. Khi có khủng hoảng, đứt gãy, sức ép, nền kinh tế vẫn có không gian chính sách đủ rộng để cơ cấu lại, chuyển hướng, thay thế nguồn lực và giữ vững ổn định vĩ mô.

 

Độc lập, tự chủ còn thể hiện ở quyền tự quyết về các vấn đề lớn như định hướng phát triển, lựa chọn mô hình tăng trưởng, chủ trương cơ cấu lại nền kinh tế, cải cách thể chế, chính sách vĩ mô. Tự chủ ở đây là tự chủ về tầm nhìn, về ý chí, nhưng phải dựa trên nền tảng nguồn lực thực chất, chứ không phải là khẩu hiệu. Độc lập, tự chủ vì thế  không chỉ đòi hỏi có ý chí dám lựa chọn con đường của mình, mà còn đòi hỏi năng lực, nguồn lực, có đủ sức để đi con đường đã lựa chon.

 

Trong bối cảnh mới, khi mà cạnh tranh chiến lược gay gắt, phân tách chuỗi cung ứng, chủ nghĩa bảo hộ, xung đột thương mại - công nghệ gia tăng, yêu cầu độc lập, tự chủ càng đặt ra bức thiết hơn. Nếu nội lực yếu, nền kinh tế dễ rơi vào vị thế bị áp đặt điều kiện, bị tổn thương trước các cú sốc, thậm chí phải chấp nhận những ràng buộc bất lợi về chính trị, an ninh, kinh tế. Ngược lại, nếu nội lực đủ mạnh, quốc gia có thể đa dạng hóa quan hệ, chủ động lựa chọn đối tác, lĩnh vực, phương thức hợp tác, nhờ vậy giữ được biên độ tự chủ trong các quyết định chiến lược. Bởi vậy, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ chính là xây dựng nền móng vật chất và thể chế cho độc lập, tự chủ về tổng thể.

 

Tuy nhiên, độc lập, tự chủ trong bối cảnh mới không phải là khép kín hay tự cung tự cấp, càng không phải là quay lưng với tiến trình hội nhập, công nghệ, vốn và tri thức toàn cầu. Ngược lại, một nội dung rất quan trọng của độc lập, tự chủ là chủ động, tích cực hội nhập, biết vận dụng hợp lý “luật chơi” và không gian hợp tác để củng cố, nâng cao nội lực của mình. Không hội nhập hiệu quả thì không thể khai thác tốt các nguồn lực bên ngoài, không rút ngắn được khoảng cách phát triển, không tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu ở các nấc thang giá trị cao hơn. Trong kỷ nguyên tri thức và công nghệ, một nền kinh tế khép kín rất khó bắt kịp trình độ tiên tiến, khó tích lũy đủ năng lực để tự chủ dài hạn.

 

Vì vậy, cần nhìn nhận độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trong mối quan hệ biện chứng. Một mặt, phải có độc lập, tự chủ thì mới có thể hội nhập một cách bình đẳng, hiệu quả, tránh lệ thuộc, tránh bị cuốn vào các liên kết bất lợi. Mặt khác, chính quá trình hội nhập sâu rộng, đa phương, đa tầng nấc lại là động lực quan trọng để củng cố và nâng cao độc lập, tự chủ. Hội nhập giúp tiếp nhận tri thức, công nghệ, vốn, phương thức quản trị hiện đại; tạo sức ép cải cách thể chế; mở rộng thị trường cho doanh nghiệp trong nước; qua đó giúp tăng năng lực cạnh tranh, mở rộng không gian phát triển, nâng tầm vị thế quốc gia. Vấn đề không phải là chọn độc lập, tự chủ hay chọn hội nhập, mà là xây dựng một mô hình phát triển trong đó độc lập, tự chủ là nền tảng, còn hội nhập là con đường để nâng cao nền tảng đó.

 

Trong bối cảnh kỷ nguyên số, nội dung độc lập, tự chủ càng trở nên sâu sắc và phức tạp hơn. Ngày nay, không chỉ có nguy cơ lệ thuộc truyền thống vào vốn, thị trường, công nghệ mà còn xuất hiện dạng lệ thuộc mới vào nền tảng số, hạ tầng đám mây, hệ điều hành, dữ liệu lớn, thuật toán do các tập đoàn xuyên quốc gia nắm giữ. Một nền kinh tế nếu chỉ tham gia ở những khâu gia công, lắp ráp, xử lý dữ liệu đơn giản, còn các khâu thiết kế, sở hữu nền tảng, nắm giữ dữ liệu và thuật toán lại nằm trong tay bên ngoài thì rất dễ rơi vào tình thế độc lập, tự chủ bị thu hẹp trong dài hạn. Khi đó, những quyết định then chốt về chuỗi cung ứng số, luồng dữ liệu, chuẩn kết nối, tiêu chuẩn kỹ thuật… có thể bị chi phối từ bên ngoài.

 

Mặt khác, kỷ nguyên số cũng làm nổi lên các vấn đề về an ninh mạng, an ninh dữ liệu, chủ quyền số, với nguy cơ gián đoạn, tê liệt hệ thống kinh tế - xã hội nếu xảy ra tấn công, can thiệp thiếu kiểm soát. Điều này đòi hỏi khi nói tới độc lập, tự chủ trong bối cảnh mới, phải bổ sung một cấu phần rất quan trọng là mức độ tự chủ về số: tự chủ về hạ tầng số (mạng viễn thông, trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây…), tự chủ tương đối về nền tảng số cốt lõi phục vụ quản trị quốc gia và các ngành kinh tế trọng yếu, tự chủ về nguồn nhân lực số, về năng lực nghiên cứu - phát triển trong các lĩnh vực công nghệ lõi. Tự chủ về số không có nghĩa là đóng cửa công nghệ mà là đủ năng lực làm chủ những khâu then chốt, giảm lệ thuộc vào một vài nhà cung cấp và có khả năng thay thế, ứng phó khi bị gây sức ép.

 

Trong bối cảnh hội nhập diễn ra đa tầng nấc, song phương, khu vực, liên khu vực, toàn cầu, với các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, các khuôn khổ hợp tác về kinh tế số, kinh tế xanh, tiêu chuẩn lao động, môi trường, sở hữu trí tuệ…, độc lập, tự chủ còn thể hiện ở năng lực tham gia mà không bị hòa tan. Quốc gia không chỉ tuân thủ luật chơi chung mà còn phải nỗ lực tham gia định hình luật chơi mới, đặc biệt trong những lĩnh vực còn đang hình thành như dữ liệu xuyên biên giới, trí tuệ nhân tạo, kinh tế số, chuyển đổi xanh. Độc lập, tự chủ nhờ vậy không chỉ là khả năng bảo toàn mình trước sức ép bên ngoài mà còn là khả năng chủ động tham gia quản trị các vấn đề khu vực và toàn cầu, qua đó nâng cao vị thế, tạo thêm không gian chính sách và lợi ích.

 

Từ góc độ đó, có thể khái quát, độc lập, tự chủ trong bối cảnh mới là sự kết hợp hài hòa giữa tự tin, tự lực, tự cường với mở cửa, hợp tác, đa phương hóa, đa dạng hóa. Tự tin, tự lực, tự cường nhấn mạnh xây dựng nội lực, nhất là thể chế hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp trong nước có năng lực cạnh tranh, nền tài chính - tiền tệ lành mạnh, ổn định. Mở cửa, hợp tác, đa phương hóa, đa dạng hóa nhấn mạnh việc chủ động tham gia mạng lưới liên kết kinh tế - thương mại - khoa học - công nghệ - giáo dục - văn hóa…, không để phụ thuộc quá mức vào bất kỳ đối tác hoặc thị trường đơn lẻ nào. Hai chiều này phải được kết hợp một cách biện chứng, mở cửa để tăng nội lực, tăng nội lực để mở cửa ở tầm cao hơn, an toàn hơn.

 

Điều cần nhấn mạnh là, độc lập, tự chủ trong bối cảnh mới không chỉ là mục tiêu của riêng lĩnh vực kinh tế, mà là vấn đề tổng thể của phát triển quốc gia. Đó là độc lập, tự chủ về chiến lược phát triển, về định hình mô hình tăng trưởng gắn với đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, nền dân chủ XHCN và đồng thuận xã hội, về bản sắc văn hóa, sức mạnh mềm và về khả năng bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Khi hiểu rõ, đúng và thực hiện đúng, độc lập, tự chủ không đối lập với hội nhập mà là điều kiện để hội nhập hiệu quả và bền vững; còn hội nhập sâu rộng, hiệu quả lại là con đường hiện thực hóa và củng cố độc lập, tự chủ trong một thế giới đang biến động nhanh, phức tạp và khó lường.

 

 

II. Mục tiêu và đặc điểm của mô hình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên số

 

1.Cơ sở để xác định mục tiêu

 

Thứ nhất, mục tiêu của mô hình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên số cần dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với hội nhập phát triển CNXH, về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; và dựa trên đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế mà Đảng đã khẳng định, bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội.

 

Thứ hai là dựa trên thực tiễn phát triển 40 năm đổi mới. Những thành tựu lớn về tăng trưởng, hội nhập, chuyển dịch cơ cấu, nâng cao vị thế quốc tế cho thấy yêu cầu phải tiếp tục phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực. Đồng thời, các hạn chế như năng lực nội sinh còn yếu, phụ thuộc vào một số thị trường, dòng vốn, công nghệ; chất lượng nguồn nhân lực, năng lực khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo còn khoảng cách so với khu vực… đặt ra nhu cầu xác định mục tiêu mô hình theo hướng củng cố nền tảng tự chủ, tăng sức chống chịu, giảm lệ thuộc.

 

Thứ ba là xuất phát từ bối cảnh quốc tế và kỷ nguyên số. Thế giới đang diễn ra quá trình cạnh tranh chiến lược, phân tách chuỗi cung ứng, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng; CMCN 4.0, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tri thức phát triển mạnh; các vấn đề an ninh phi truyền thống, an ninh mạng, chủ quyền số, dữ liệu lớn ngày càng nổi bật. Bối cảnh đó đặt ra yêu cầu xác định mục tiêu mô hình theo hướng vừa tham gia sâu, rộng, hiệu quả vào các mạng lưới liên kết mới, vừa bảo đảm được độc lập, tự chủ về thể chế, công nghệ, dữ liệu, nền tảng số và không gian chính sách.

 

Thứ tư là từ yêu cầu chiến lược phát triển quốc gia về xây dựng nền kinh tế có năng lực cạnh tranh cao, tăng trưởng nhanh và bền vững, gắn với tiến bộ, công bằng xã hội; bảo đảm ổn định vĩ mô, an ninh kinh tế, an ninh năng lượng, lương thực, môi trường; giữ vững độc lập, chủ quyền, nâng cao vị thế quốc gia. Tất cả những cơ sở đó quy định việc xác định mục tiêu của mô hình phải hướng đến một nền kinh tế với nội lực mạnh, hội nhập sâu, tự chủ cao và phát triển bền vững trong không gian số.

 

 

2. Mục tiêu tổng quát

Từ các phân tích trên, có thể khái quát mục tiêu tổng quát của mô hình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên số là: Xây dựng một nền kinh tế có nội lực mạnh, cấu trúc hợp lý, khả năng chống chịu và thích ứng cao, đủ sức tự quyết đường lối phát triển, không bị lệ thuộc bị động vào bên ngoài; đồng thời chủ động, tích cực, tham gia sâu, rộng và hiệu quả vào các mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị, không gian số và các thiết chế kinh tế quốc tế, tận dụng tối đa các cơ hội do toàn cầu hóa, cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số mang lại. Thực hiện những mục tiêu đó chính là tạo ra sự phát triển nhanh, bền vững, bao trùm, nâng cao vị thế và sức cạnh tranh của quốc gia trong trật tự thế giới mới.

 

Một số mục tiêu cụ thể

 

Thứ nhất, mục tiêu về nội lực và sức chống chịu của nền kinh tế. Mô hình này hướng tới việc tạo dựng nội lực vững mạnh, thể hiện ở cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, dựa nhiều hơn vào công nghiệp chế biến chế tạo, dịch vụ hiện đại, kinh tế số, kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh tế sáng tạo. Tỷ trọng giá trị gia tăng nội địa trong sản phẩm, trong xuất khẩu, trong chuỗi giá trị toàn cầu ngày càng cao; giảm tình trạng gia công đơn giản, phụ thuộc nhập khẩu nguyên liệu và linh kiện. Xây dựng các trụ cột an ninh kinh tế: an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh tài chính – tiền tệ, an ninh công nghệ, an ninh mạng, an ninh dữ liệu. Khả năng chống chịu, tự chủ không chỉ nằm ở quy mô, mà nằm ở chất lượng cơ cấu và mức độ làm chủ các khâu then chốt của nền kinh tế.

 

Thứ hai, mục tiêu về trình độ phát triển và năng lực cạnh tranh. Mô hình đặt mục tiêu nâng nền kinh tế lên trình độ phát triển cao hơn, thể hiện qua việc chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa trên lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên sang mô hình dựa trên năng suất, tri thức, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và xanh hóa. Năng suất lao động tăng nhanh, dựa trên nâng cao trình độ nhân lực, áp dụng công nghệ mới, tổ chức sản xuất tinh gọn, quản trị hiện đại. Hình thành được một số ngành, lĩnh vực mũi nhọn có sức cạnh tranh quốc tế, nhất là về công nghệ số, sản phẩm xanh, dịch vụ tri thức, dịch vụ sáng tạo, qua đó tạo “đầu tàu kéo” cho toàn bộ nền kinh tế.

 

Thứ ba, mục tiêu về hội nhập sâu rộng, thực chất, hiệu quả. Mô hình nhấn mạnh hội nhập phải sâu, rộng nhưng có chọn lọc và hiệu quả, tham gia chủ động vào các thể chế kinh tế quốc tế, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, các khung hợp tác về kinh tế số, kinh tế xanh, thương mại điện tử. Đa phương hóa, đa dạng hóa đối tác, tránh phụ thuộc vào một vài thị trường, một vài dòng vốn, một vài công nghệ. Gắn hội nhập với việc nâng cấp vị trí của doanh nghiệp và nền kinh tế trong chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, hàm lượng công nghệ và chất xám trong sản phẩm xuất khẩu. Hội nhập không chỉ để mở rộng thị trường mà quan trọng hơn là kênh để tiếp nhận, hấp thụ và tái tạo tri thức, công nghệ, chuẩn mực quản trị hiện đại.

 

Thứ tư, mục tiêu về phát triển bền vững, bao trùm và bảo đảm ổn định xã hội. Mô hình gắn chặt độc lập, tự chủ với phát triển bền vững và bao trùm, gắn tăng trưởng với bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm tài nguyên, giảm phát thải, thích ứng với biến đổi khí hậu, từng bước hình thành kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, thu hẹp bất bình đẳng vùng miền, giới, nhóm xã hội, tránh để quá trình hội nhập và chuyển đổi số làm gia tăng phân hóa. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và nhân lực số, nâng cao dân trí, bảo đảm mọi người dân có cơ hội tiếp cận các thành quả của hội nhập, chuyển đổi số, không ai bị bỏ lại phía sau.

 

3. Một số đặc điểm chủ yếu của mô hình phát triển

 

Từ mục tiêu trên, có thể nhận diện một số đặc điểm cơ bản của mô hình phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên số cụ thể trên những nét chính sau:

 

Thứ nhất, đặc điểm về cấu trúc động lực phát triển

Đặc điểm nổi bật đầu tiên là chuyển dịch động lực phát triển, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, kinh tế tri thức trở thành động lực trung tâm của tăng trưởng. Cùng với đó, mô hình nhấn mạnh phát triển các trụ cột mới như kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế sáng tạo, gắn kết chặt chẽ giữa chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Các nguồn lực truyền thống (lao động, vốn, tài nguyên) vẫn quan trọng, nhưng được cấu trúc lại theo hướng sử dụng hiệu quả hơn, gia tăng giá trị trên nền tảng công nghệ và tri thức. Động lực phát triển trong mô hình này là tổ hợp đa chiều: nội lực - ngoại lực, vật chất - phi vật chất, hữu hình - vô hình, trong đó tri thức, dữ liệu, công nghệ và thể chế đóng vai trò ngày càng quyết định.

Thứ hai, đặc điểm về quan hệ Nhà nước - thị trường - xã hội

 

Mô hình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên số không thể tách rời một cấu trúc mới của quan hệ Nhà nước - thị trường - xã hội. Thị trường được vận hành đầy đủ, đồng bộ, đóng vai trò quyết định trong phân bổ nguồn lực, kích thích cạnh tranh và đổi mới. Nhà nước chuyển mạnh sang vai trò kiến tạo phát triển, điều tiết vĩ mô, dẫn dắt chiến lược, thiết kế thể chế, bảo đảm ổn định, xử lý thất bại thị trường và bảo vệ nhóm yếu thế. Xã hội (gồm người dân, các tổ chức xã hội, các mạng lưới chuyên gia …) tham gia ngày càng sâu vào quá trình hoạch định, phản biện, giám sát chính sách, cùng tạo lập môi trường cho đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Quan hệ ba bên này phải được thiết kế sao cho vừa phát huy tối đa sức mạnh của thị trường và xã hội, vừa bảo đảm vai trò định hướng, dẫn dắt của Nhà nước, tránh can thiệp hành chính quá mức hoặc buông lỏng quản lý trong những lĩnh vực nhạy cảm như dữ liệu, nền tảng số, môi trường, lao động.

 

Thứ ba, đặc điểm về cấu trúc kinh tế đối ngoại

Về mặt đối ngoại, mô hình thể hiện qua một số đặc điểm, như đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế đi liền với chuyên sâu, không dàn trải, mà chọn những đối tác, lĩnh vực có tính bổ sung và lan tỏa cao. Tham gia tích cực vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hiệp định về kinh tế số, kinh tế xanh, đồng thời chủ động đề xuất sáng kiến trong các diễn đàn khu vực và toàn cầu. Hướng tới mô hình hội nhập thông minh, biết cân đối giữa lợi ích ngắn hạn và dài hạn, giữa lợi ích thương mại và lợi ích chiến lược, giữa mở cửa và bảo vệ các lợi ích cốt lõi, an ninh kinh tế - an ninh số. Như vậy, hội nhập kinh tế trong mô hình này mang tính chủ động, linh hoạt, có chiến lược, không chỉ là mở cửa để xuất khẩu, mà là tham gia sâu vào việc kiến tạo luật chơi và không gian phát triển mới.

 

Thứ tư, đặc điểm về thể chế và quản trị quốc gia trong kỷ nguyên số

Một đặc điểm rất quan trọng là yêu cầu hiện đại hóa thể chế và đổi mới quản trị quốc gia. Thể chế kinh tế cần được hoàn thiện theo hướng kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập, tương thích với chuẩn mực quốc tế, tạo khung pháp lý thuận lợi cho các mô hình kinh doanh mới, ngành nghề mới, đồng thời bảo đảm an ninh, an toàn, công bằng xã hội. Xây dựng chính phủ số, chính quyền số, ứng dụng rộng rãi dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo trong hoạch định và thực thi chính sách, chuyển từ quản lý hành chính sang quản trị dựa trên dữ liệu và dịch vụ số. Nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong bối cảnh mới qua đó tăng sức chống chịu của nền kinh tế. Nói cách khác, mô hình phát triển này gắn với việc chuyển đổi mô hình quản trị nhà nước, từ quản lý sang kiến tạo và phục vụ, từ phản ứng bị động sang chủ động dự báo và dẫn dắt.

 

Thứ năm, đặc điểm về nguồn nhân lực và nền tảng tri thức 

Nền kinh tế độc lập, tự chủ trong kỷ nguyên số đòi hỏi một lực lượng nhân lực chất lượng cao, nhân lực số, nhân lực quản trị đông đảo, có khả năng làm chủ công nghệ, ngoại ngữ, kỹ năng số và tư duy toàn cầu. Hệ thống giáo dục, đào tạo nghề phải được tái cấu trúc theo nhu cầu của mô hình mới, chú trọng các lĩnh vực STEM, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, kinh tế số, quản lý môi trường, đổi mới sáng tạo…Cần hình thành hệ sinh thái tri thức và đổi mới sáng tạo, như các trung tâm R&D, vườn ươm khởi nghiệp, mạng lưới doanh nhân - nhà khoa học - chuyên gia trong và ngoài nước, để tri thức và ý tưởng mới được tạo sinh và ứng dụng nhanh vào thực tiễn. Khả năng hấp thụ, cải biến và sáng tạo tri thức, công nghệ trở thành tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ độc lập, tự chủ thực chất của nền kinh tế.

 

IV. Một số giải pháp chính sách hiện thực hoá mô hình

 

Để hiện thực hóa mô hình nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên số, cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp thể chế, cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển khoa học - công nghệ, hội nhập chọn lọc, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản trị vĩ mô và phát huy vai trò các chủ thể trong hệ sinh thái phát triển.

 

Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, thích ứng với kỷ nguyên số

Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN theo hướng đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập; bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu, cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, xóa bỏ cơ chế “xin - cho” và rào cản hành chính. Song song, cần xây dựng khung pháp lý cho kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tri thức, như pháp luật về dữ liệu, tài sản số, giao dịch và chữ ký số, thuế trong môi trường số; quy định về bảo vệ quyền riêng tư, an ninh mạng, an ninh dữ liệu. Thể chế phải đi trước một bước, tạo không gian thể chế vượt trội và đủ rộng để khuyến khích doanh nghiệp đổi mới, đồng thời kiểm soát rủi ro phát sinh trong không gian số.

 

Hai là, tăng cường nội lực, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng

Trọng tâm là nâng cao năng lực nội sinh, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, dựa nhiều hơn vào năng suất, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Cần cơ cấu lại ngành, lĩnh vực theo hướng ưu tiên công nghiệp chế biến chế tạo thông minh, dịch vụ số, tài chính số, thương mại điện tử, nông nghiệp công nghệ cao, kinh tế tuần hoàn…; hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tham gia sâu vào khâu thiết kế, R&D, xây dựng thương hiệu thay vì chỉ gia công, lắp ráp. Đồng thời, nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế nhà nước, thúc đẩy kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hình thành đội ngũ doanh nghiệp nội địa đủ sức cạnh tranh và liên kết hiệu quả với các tập đoàn đa quốc gia.

 

Ba là, phát triển mạnh khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và hạ tầng số

Cần tăng tỷ lệ đầu tư cho khoa học - công nghệ, R&D; đổi mới cơ chế quản lý để doanh nghiệp trở thành trung tâm hệ thống đổi mới sáng tạo; gắn kết “Nhà nước - doanh nghiệp - viện, trường”. Ưu tiên các chương trình công nghệ lõi như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, an ninh mạng, bán dẫn, IoT, tự động hóa, công nghệ sinh học…; hỗ trợ doanh nghiệp làm chủ, từng bước nội địa hóa công nghệ trọng yếu. Song song, phát triển hạ tầng số hiện đại, an toàn (mạng băng rộng, 5G, 6G, trung tâm dữ liệu, nền tảng đám mây, hạ tầng chính phủ số - kinh tế số - xã hội số) và xây dựng khung quản trị dữ liệu quốc gia, chính sách dữ liệu mở, cơ chế chia sẻ dữ liệu trên cơ sở bảo đảm chủ quyền số, an ninh dữ liệu.

 

Bốn là, chiến lược hội nhập chủ động, chọn lọc, nâng cao chất lượng

Cần chuyển từ hội nhập mở rộng sang hội nhập chất lượng cao, chọn lọc và chủ động định hình luật chơi. Một là, triển khai hiệu quả các FTA thế hệ mới, đồng thời tham gia các khuôn khổ hợp tác mới về kinh tế số, kinh tế xanh, chuỗi cung ứng, thuế tối thiểu toàn cầu. Hai là, đa dạng hóa thị trường, đối tác và chuỗi cung ứng, giảm phụ thuộc vào một vài thị trường, nhất là với các mặt hàng chiến lược. Ba là, thu hút FDI có chọn lọc, ưu tiên dự án công nghệ cao, quản trị tiên tiến, cam kết chuyển giao công nghệ, liên kết với doanh nghiệp trong nước. Bốn là, nâng cao năng lực đàm phán, thực thi và tranh tụng quốc tế, từng bước tham gia xây dựng các chuẩn mực mới về môi trường, lao động, dữ liệu, thương mại số.

 

Năm là, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực số và quản trị hiện đại

Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo theo hướng mở, linh hoạt, gắn với nhu cầu thị trường lao động số. Ưu tiên đào tạo nhân lực chất lượng cao cho các ngành công nghệ thông tin, an ninh mạng, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, tự động hóa, logistics, tài chính số, kinh tế số; tăng cường giáo dục STEM, kỹ năng số, ngoại ngữ, tư duy phản biện, tinh thần đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp. Hệ thống giáo dục nghề nghiệp cần gắn kết chặt với doanh nghiệp, đẩy mạnh đào tạo lại, nâng cấp kỹ năng cho lao động hiện hữu. Đồng thời, có cơ chế thu hút, trọng dụng nhân tài trong và ngoài nước, xây dựng đội ngũ chuyên gia chiến lược về kinh tế số, quản trị số, chính sách công; nâng cao năng lực quản trị số cho cán bộ quản lý nhà nước và lãnh đạo doanh nghiệp.

 

Sáu là, củng cố năng lực quản trị vĩ mô, an ninh kinh tế và an ninh số

Tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo sớm về kinh tế, tài chính, tiền tệ, năng lượng, lương thực, biến đổi khí hậu, rủi ro chuỗi cung ứng… trên cơ sở ứng dụng phân tích dữ liệu lớn, mô hình mô phỏng, trí tuệ nhân tạo. Củng cố an ninh tài chính - tiền tệ, quản lý nợ công, nợ nước ngoài an toàn, đa dạng hóa thị trường và kênh vốn. Đặc biệt, xây dựng hệ thống bảo đảm an ninh mạng, an ninh dữ liệu, an ninh hạ tầng số trọng yếu (tài chính - ngân hàng, năng lượng, viễn thông, giao thông, y tế, chính phủ điện tử…), chuẩn hóa quy trình quản trị rủi ro số và thường xuyên diễn tập các kịch bản khủng hoảng. Gắn kết chặt chẽ đối ngoại - quốc phòng, an ninh - kinh tế để giữ vững độc lập, tự chủ chiến lược và môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển.

 

Bảy là, phát huy vai trò Nhà nước kiến tạo, doanh nghiệp là trung tâm, xã hội đồng hành

Nhà nước chuyển mạnh sang vai trò kiến tạo phát triển, điều tiết thông minh,  tập trung xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, chính sách; cung cấp dịch vụ công chất lượng cao; dẫn dắt các lĩnh vực, địa bàn, ngành nghề then chốt; thiết kế các gói hỗ trợ đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, “xanh hóa” sản xuất - tiêu dùng, hạn chế can thiệp hành chính trực tiếp. Doanh nghiệp phải trở thành chủ thể trung tâm, chủ động nâng cao năng lực quản trị, đầu tư công nghệ, chuyển đổi số, tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, tuân thủ chuẩn mực quốc tế về môi trường, lao động, quản trị công ty, trách nhiệm xã hội. Các hiệp hội, tổ chức xã hội, cơ sở nghiên cứu, báo chí- truyền thông có vai trò kết nối, giám sát, phản biện, tạo đồng thuận xã hội; người dân được hỗ trợ để trở thành công dân số, có kỹ năng, ý thức tham gia và thụ hưởng thành quả phát triển.

 

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng trong kỷ nguyên số không phải là khép kín hay hòa tan, mà là kết hợp nội lực mạnh với mở cửa rộng; tự chủ về đường lối và năng lực thực thi nhưng gắn với luật chơi chung; phát triển nhanh đi đôi với bền vững, bao trùm, xanh và số hóa, trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và giá trị văn hóa, con người Việt Nam.

 

   Vũ Văn Hà, Hội đồng Lý luận Trung ương

                                  Vũ Hoàng Dũng, Đại học KHXH và Nhân văn Hà Nội

 

 

 

 

Tài liệu tham khảo

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I và II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

3. Chính phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.

4. Ban Kinh tế Trung ương (2021), Kinh tế số Việt Nam: Thực trạng và giải pháp phát triển, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

5. Đặng Xuân Hoan (2020), Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế – từ góc độ quản lý nhà nước, Theo Quanlynhanuoc.vn, ngày 1/12/2020

6. OECD (2019), Going Digital: Shaping Policies, Improving Lives, OECD Publishing, Paris.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết