Thứ Sáu, ngày 12 tháng 12 năm 2025

Quản lý phát triển xã hội bền vững, đảm bảo tiến bộ công bằng xã hội trong kỷ nguyên mới

Ngày phát hành: 11/12/2025 Lượt xem 32

 

 

1. Quản lý phát triển xã hội bền vững, đảm bảo tiến bộ công bằng xã hội trong kỷ nguyên mới

 

Quản lý phát triển xã hội bền vững, đảm bảo tiến bộ công bằng xã hội là quá trình cân bằng ba yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường để đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai. Nó bao gồm các hoạt động nhằm xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, đảm bảo mọi người được tiếp cận pháp lý và các dịch vụ thiết yếu như y tế, giáo dục một cách công bằng. Trọng tâm của khái niệm này là sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và bảo đảm công bằng xã hội. Quản lý phát triển xã hội bền vững bao gồm việc sử dụng hợp lý các nguồn lực, giảm thiểu chất thải, và sử dụng năng lượng hiệu quả để đảm bảo sự cân bằng tổng thể và ngăn ngừa sự cạn kiệt tài nguyên. Đảm bảo tiến bộ công bằng xã hội nhấn mạnh tới việc tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người, giảm bất bình đẳng, và đảm bảo rằng lợi ích của sự phát triển được chia sẻ rộng rãi trong dân cư. Công bằng xã hội đòi hỏi quyền tiếp cận công bằng đến giáo dục, y tế, việc làm, và các nguồn lực khác, cũng như sự tham gia đầy đủ vào đời sống chính trị và văn hóa của cộng đồng. Mục tiêu chính là xây dựng một xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

 

Phát triển bền vững phải cân bằng chặt chẽ giữa khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường. Môi trường xanh, sạch, không bị ô nhiễm bởi khí thải, thân thiện với môi trường sẽ mở ra những cơ hội, triển vọng để các nhà đầu tư bên ngoài tìm đến, thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế. Ngược lại, nếu môi trường bị ô nhiễm, không thu hút được các nhà đầu tư, kinh tế sẽ không phát triển, ảnh hưởng đến đời sống của các tầng lớp nhân dân. Kinh tế phát triển, sẽ tạo công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển giao khoa học công nghệ theo hướng hiện đại và môi trường được xử lý ngày càng tốt hơn. Vì vậy, giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường là sự chủ động của con người trong khai thác, sử dụng các nguồn lực để phát triển các ngành kinh tế nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu, môi trường sinh thái.

 

Công bằng xã hội hiểu theo nghĩa chung nhất, là sự ngang bằng trong mối quan hệ giữa người với người, dựa trên nguyên tắc thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ. Từng thành viên trong xã hội gắn bó với cộng đồng xã hội trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua sự cống hiến theo khả năng trí tuệ, sức lực cho sự phát triển xã hội và được xã hội bù đắp, chăm sóc trở lại một cách tương xứng, không có sự tương xứng ấy là bất công.

 

Như vậy, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường luôn có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Tăng trưởng là điều kiện của phát triển, của tiến bộ, đó là tiền đề về vật chất - kinh tế để thực hiện công bằng và bảo vệ môi trường. Một xã hội có nền kinh tế phồn vinh, giàu có phải là một xã hội đạt được và duy trì được sức tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. Không có một nền kinh tế tăng trưởng thì không thể có tiềm lực vật chất để tiếp tục đầu tư cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, không có vốn và các nguồn lực nói chung để có thể tái sản xuất mở rộng, càng không thể có điều kiện vật chất để cải thiện, nâng cao mức sống, chất lượng cuộc sống của dân cư bị ô nhiễm và tài nguyên cạn kiệt.

 

Quản lý phát triển xã hội bền vững, đảm bảo tiến bộ công bằng xã hội là quá trình thực hiện bảo đảm an sinh và nâng cao phúc lợi xã hội. Điều này luôn được Đảng, Nhà nước đặt trọng tâm ưu tiên trong tiến trình phát triển đất nước hùng cường. Quản lý phát triển xã hội bền vững, đảm bảo tiến bộ công bằng xã hội là không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển: Mọi chính sách và hành động phát triển phải ưu tiên tiến bộ cho những người dễ bị tổn thương và ở vị thế yếu nhất. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của người dân, đồng hành của mọi tầng lớp trong xã hội, Việt Nam trở thành hình mẫu về xóa đói, giảm nghèo trên thế giới. Đảng và Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm và có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người yếu thế; phát triển kinh tế xã hội ở các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Vào cuối tháng 8 năm 2025 Việt Nam đã hoàn thành một nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng: Xóa nhà tạm, nhà dột nát. xác định bảo đảm an sinh và nâng cao phúc lợi xã hội là mục tiêu xuyên suốt, trong đó trọng tâm ưu tiên là quan tâm đến người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn. Vì vậy, song song với bảo đảm “an cư”, được coi là nền tảng bước đầu, các bộ, ngành, địa phương tiếp tục có chính sách hỗ trợ đột phá để người nghèo yên tâm “lạc nghiệp”. Theo đó, các bộ, ngành, địa phương tiếp tục tạo việc làm, sinh kế, hỗ trợ sản xuất, đào tạo nghề, cung cấp tín dụng ưu đãi để người dân vươn lên, thoát nghèo bền vững. Hiện Việt Nam đã hoàn thành xóa nhà tạm, nhà dột nát và đang phấn đấu đến năm 2030 cơ bản không còn hộ nghèo. Đây là bước đi đột phá, nền tảng vững chắc để không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân, quyết không để ai bị bỏ lại phía sau.

 

Quản lý phát triển xã hội bền vững và đảm bảo tiến bộ công bằng xã hội là một cam kết lâu dài nhằm tạo ra một tương lai tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người, dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau, quản lý tài nguyên có trách nhiệm và phân phối cơ hội một cách công bằng. Giải quyết tốt vấn đề quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là nhằm thực hiện mục tiêu đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

Qua 40 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước và Nhân dân đã thực hiện tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và phát triển văn hóa bảo đảm ổn định đời sống nhân dân. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức về suy giảm kinh tế và những bất ổn vĩ mô làm giảm các cơ hội việc làm bền vững của người lao động. Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp như già hóa dân số, thiên tai, biến đổi khí hậu, phân hóa giàu nghèo, chất lượng giáo dục đào tạo, phát triển văn hóa và bảo đảm công bằng xã hội chưa theo kịp yêu cầu phát triển của đất nước.

 

Yêu cầu đối với quản lý phát triển xã hội trong Kỷ nguyên mới là cần đổi mới, hoàn thiện các chính sách an sinh xã hội, giáo dục và đào tạo nghề, nâng cao chất lượng dịch vụ công và dịch vụ xã hội cơ bản. Đồng thời, cần thúc đẩy chuyển đổi số, cải cách quản trị, huy động đa dạng nguồn lực, tăng cường giám sát và hội nhập quốc tế để quản lý phát triển xã hội bền vững và hiệu quả hơn. 

 

 

2. Quản lý phát triển xã hội bền vững, đảm bảo tiến bộ công bằng xã hội theo dự thảo Văn kiện Đại hội XIV

 

Theo dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam, công tác quản lý phát triển xã hội bền vững được nhấn mạnh với nhiều điểm mới mang tính đột phá trong tư duy và quan điểm chỉ đạo. Những điểm nổi bật về quản lý phát triển xã hội bền vững theo dự thảo văn kiện bao gồm:

 

Đặt kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường ngang hàng nhau: Dự thảo Văn kiện thể hiện rõ quan điểm phát triển bền vững dựa trên ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường, trong đó phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm. Điều này cho thấy sự phát triển toàn diện, không chỉ chú trọng tăng trưởng kinh tế mà còn quan tâm sâu sắc đến chất lượng và tính bền vững của sự phát triển.

 

Đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội: Quan điểm xuyên suốt là gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, không hy sinh công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trong đó Văn kiện nhấn mạnh tầm nhìn phát triển vì con người, coi con người vừa là trung tâm, vừa là chủ thể, nguồn lực chính và mục tiêu của sự phát triển. Dự thảo đề ra chủ trương xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới, coi đây là yêu cầu cấp thiết để phát triển đất nước, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ cho mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.

 

Văn kiện đề cập đến việc phát triển kinh tế xanh, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo như những động lực mới, song hành với các yếu tố xã hội và môi trường trong tiến trình phát triển bền vững.

 

Nâng cao chất lượng quản trị quốc gia: Văn kiện cũng đề cập đến việc nâng cao chất lượng quản trị quốc gia như một yếu tố quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững. Tư duy mới này thể hiện bước tiến lớn trong nhận thức của Đảng, hướng tới một mô hình phát triển toàn diện, hài hòa, đảm bảo chất lượng cuộc sống cho người dân và sự bền vững lâu dài của đất nước. 

 

Trong dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, tư duy về quản lý phát triển xã hội bền vững có những điểm khác biệt và nhấn mạnh mạnh mẽ hơn so với Văn kiện Đại hội XIII, thể hiện sự phát triển nhận thức và tầm nhìn chiến lược của Đảng, nhằm xây dựng một mô hình phát triển toàn diện, hài hòa, hiệu quả và bền vững hơn. Những điểm khác biệt cốt lõi bao gồm:

 

Tầm quan trọng ngang bằng giữa các trụ cột phát triển: Văn kiện Đại hội XIII đã đề cập đến phát triển bền vững với ba trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, dự thảo Văn kiện Đại hội XIV thể hiện rõ nét hơn quan điểm đặt kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường ở vị trí ngang hàng nhau và là trung tâm, thay vì chỉ nhấn mạnh kinh tế là nền tảng.

 

Nhấn mạnh các động lực phát triển mới: Văn kiện Đại hội XIV đưa ra những trụ cột mới mang tính đột phá cho phát triển bền vững, bao gồm khoa học, công nghệ, chuyển đổi số và kinh tế xanh. Đây là sự bổ sung quan trọng so với Đại hội XIII, phản ánh xu thế thời đại và yêu cầu phát triển nhanh, bền vững trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

 

Xây dựng nền giáo dục "hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới" phát huy mạnh mẽ vai trò của văn hóa: Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đề ra chủ trương xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới. Đây là một yêu cầu mới, cấp thiết, được xem là yếu tố cốt lõi để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có phần cụ thể và mạnh mẽ hơn so với các định hướng giáo dục trong Văn kiện Đại hội XIII. Dự thảo Văn kiện tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn vai trò nền tảng, động lực và nguồn lực trực tiếp của văn hóa trong sự phát triển bền vững. Văn hóa được xem là sức mạnh mềm quốc gia, là hệ điều tiết các mối quan hệ xã hội, khơi dậy khát vọng vươn lên của con người Việt Nam.

 

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đề cao tính hành động và cụ thể hóa chính sách; có sự đổi mới trong việc cụ thể hóa các chương trình, đề án, dự án ngay trước thềm Đại hội, nhằm khắc phục tình trạng chờ đợi cụ thể hóa Nghị quyết sau Đại hội. Điều này cho thấy sự quyết tâm cao độ trong việc triển khai các chính sách xã hội bền vững ngay lập tức.

 

 

3. Quản lý phát triển xã hội bền vững trong Kỷ nguyên mới

 

Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, các chính sách kinh tế - xã hội cần được đổi mới mạnh mẽ, chính sách phát triển xã hội cần bao trùm và hướng tới thu hẹp khoảng cách giữa các nhóm xã hội trong thụ hưởng thành tựu phát triển với mục đích cơ bản là giảm bất bình đẳng xã hội, đảm bảo cơ hội phát triển cho mọi người. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã đặt ra đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhấn mạnh sự phát triển từ "đổi mới toàn diện" sang "đổi mới sáng tạo" và tập trung vào các trụ cột mới như khoa học công nghệ, chuyển đổi số và kinh tế xanh. Yêu cầu này đặt ra cả đối với nội dung quản lý phát triển xã hội hướng đến đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội đặt trong khuôn khổ chung của quản trị quốc gia. Từ cách tiếp cận này, bài viết đề xuất một số ý kiến như sau.

 

Thứ nhất, cần đổi mới mô hình tăng trưởng và hoàn thiện thể chế. Công cuộc chuyển đổi mô hình tăng trưởng cần hướng tới mô hình tăng trưởng mới dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và kinh tế carbon thấp. Điều này tạo nền tảng kinh tế vững chắc để hỗ trợ phát triển xã hội bền vững. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự bình đẳng trong cơ hội và trách nhiệm giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân. Việc này nhằm mục đích tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, giảm bất bình đẳng. Đồng thời nâng cao năng lực quản trị quốc gia thông qua tăng cường kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, nâng cao năng lực quản trị phát triển quốc gia theo hướng kiến tạo phát triển, pháp quyền hiện đại, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả, phục vụ nhân dân. 

 

Thứ hai, phát triển toàn diện con người và lĩnh vực xã hội. Đưa phát triển văn hóa ngang tầm kinh tế, chính trị, xã hội, coi văn hóa là nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh, động lực to lớn thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước. Thực hiện tốt an sinh xã hội và giảm nghèo bền vững, chăm lo lợi ích chính đáng của Nhân dân, bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội, thu hẹp chênh lệch vùng miền, tạo cơ hội phát triển cho mọi người. Đây chính là nền tảng vật chất và tinh thần vững chắc để gắn kết mọi thành phần trong xã hội. Đề cao việc đảm bảo các hệ thống an sinh xã hội toàn diện, bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp thất nghiệp và lương hưu. Chính sách giảm nghèo được nhấn mạnh cần hiệu quả hơn, đặc biệt quan tâm đến các nhóm dễ bị tổn thương. Tăng cường đầu tư vào giáo dục và y tế thông qua xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và cải thiện hệ thống y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân. 

 

Thứ ba, quan tâm hơn nữa tới bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Đặt việc bảo vệ môi trường ngang hàng với các mục tiêu phát triển khác, đảm bảo cân bằng giữa tăng trưởng, tiến bộ xã hội và bảo tồn sinh thái. Nhấn mạnh tư duy phát triển xanh, định hướng cho hành động của các cấp chính quyền, doanh nghiệp và toàn xã hội trong việc bảo vệ tài nguyên và giảm phát thải. 

 

Thứ tư, tăng cường sự tham gia của các đoàn thể chính trị - xã hội và tổ chức xã hội, tiếp tục thể chế hóa quyền tham gia của người thụ hưởng. Tăng cường dân chủ cơ sở và dân trí cho người dân tham gia vào quá trình xây dựng, giám sát và cung cấp dịch vụ của các chính sách an sinh xã hội.

 

Thứ năm, xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá, giám sát đối với lĩnh vực an sinh xã hội, trong đó có quy định chức năng nhiệm vụ cụ thể đối với các bên liên quan. Nghiên cứu bổ sung một số chỉ tiêu ở cấp độ kết quả đầu ra có ảnh hưởng đến phát triển xã hội bền vững.

 

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã thể hiện rõ bản lĩnh, tầm nhìn chiến lược và khát vọng phát triển đất nước mạnh mẽ hơn, gắn với các mốc lịch sử 100 năm thành lập Đảng và thành lập nước. Điều này tạo động lực to lớn và định hướng rõ ràng hơn cho công tác quản lý phát triển xã hội bền vững đảm bảo tiến bộ công bằng xã hội trong kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam./.

 

TS. Lê Thị Thúy

Hội đồng Lý luận Trung ương

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết